Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (sách nghệ thuật) giữa bên bán ở Ý với bên mua ở Thụy Sỹ xét xử tại Tòa án khu vực Thương mại Zürich của Thụy Sỹ

Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (sách nghệ thuật) giữa bên bán ở Ý với bên mua ở Thụy Sỹ xét xử tại Tòa án khu vực Thương mại Zürich của Thụy Sỹ

1. Các bên tranh chấp

Nguyên đơn: Bên bán (Ý).

Bị đơn: Bên mua (Thụy Sỹ).

Cơ quan giải quyết tranh chấp: Tòa Thương mại Zürich của Thụy Sỹ

2. Diễn biến tranh chấp

Một bên mua Thụy Sĩ, đã ủy quyền cho một bên bán Ý, trong một số trường hợp, để in, đóng sách và cung cấp sách nghệ thuật. Khi bên mua không trả được khoản tiền mua sách còn nợ, bên bán đã khởi kiện. Sau đó, bên mua tuyên bố một lô hàng sách thiếu sự phù hợp, cho phép bên mua có quyền được giảm tiền hàng và được bồi thường thiệt hại. Bên mua cũng cho rằng có một thỏa thuận giữa các bên để trì hoãn thanh toán.

Yêu cầu của bên bán

Trong những năm 1995 và 1996, bên bán - và một phần của công ty A. S.p.A., công ty mà bên bán đã sáp nhập vào ngày 23 tháng 12 năm 1995 - đã nhận được nhiều ủy quyền khác nhau của bên mua, bên đóng vai trò là nhà xuất bản sách nghệ thuật. Các đơn đặt hàng liên quan đến việc in ấn, đóng và giao sách và ấn phẩm nghệ thuật. Bên bán yêu cầu thanh toán hóa đơn chưa được thanh toán liên quan đến các lần ủy quyền khác nhau. Ngày của hóa đơn được gửi nằm trong khoảng thời gian từ ngày 24 tháng 10 năm 1995 đến ngày 25 tháng 6 năm 1996.

Bên mua không phủ nhận rằng các hợp đồng đã được hình thành và việc giao hàng đã được thực hiện. Tuy nhiên, bên mua tuyên bố rằng họ có thể đưa ra các yêu cầu bồi thường khác nhau cho các thiệt hại cũng như yêu cầu giảm giá bán. Bối cảnh của tranh chấp là cáo buộc của bên mua rằng bên bán liên tục không cung cấp sách nghệ thuật, tương ứng là các ấn phẩm nghệ thuật kịp thời gian mở triển lãm hoặc trưng bày. Bên mua tuyên bố rằng, kết quả là, bên mua đã bị mất niềm tin của những nhà bảo trợ nghệ thuật tư nhân quan trọng và do đó phải chịu thiệt hại lớn.

Yêu cầu của bên mua

Bên mua đưa ra các yêu cầu bồi thường thiệt hại sau đây:

* Yêu cầu 1: Về sách Christian Vogt “In Camera”

Bên mua cho rằng những cuốn sách nghệ thuật này có chất lượng kém hơn, vì bên bán đã không sử dụng loại giấy đã thỏa thuận khi đóng sách mà thay vào đó sử dụng giấy có chất lượng thấp hơn. Bên mua đệ trình rằng họ không bao giờ chấp nhận những cuốn sách này, họ đã thông báo cho bên bán về việc thiếu phù hợp kịp thời và chỉ từ chối đề nghị khắc phục của bên bán vì việc khắc phục là không thể vì thiếu thời gian. “Hành vi khoan nhượng” của bên mua đối với bên bán chỉ dựa trên hoàn cảnh đặc biệt của giao dịch sách nghệ thuật. Do đó, bên mua lập hóa đơn cho bên bán với giá thấp hơn các cuốn sách nghệ thuật được giao với chi phí ràng buộc (20.000.000 đồng lire Ý).

Bên bán đã phản hồi đệ trình này rằng họ đã thực hiện đơn hàng phù hợp. Mặc dù đúng là người đóng sách đã vô tình sử dụng loại giấy hơi khác so với loại giấy mong muốn, bên bán không chịu trách nhiệm về việc này. Bên mua đã không đề nghị thay đổi giấy. Cuốn sách cũng được khách hàng chấp nhận mà không phản đối, giá trị thấp hơn không tồn tại.

* Yêu cầu 2: Về ấn phẩm “100 năm - 100 hình ảnh”

Bên mua đệ trình rằng các ấn phẩm đã được chuyển đến triển lãm của Hiệp hội Nghệ thuật Frankfurt do B-Bank tài trợ quá trễ. Thời gian và ngày khai mạc một triển lãm đã hình thành nên “thời hạn” cho việc giao các ấn phẩm triển lãm. Tuy nhiên các ấn phẩm chỉ đến sau khi triển lãm đã khai mạc được 3 giờ. Bên bán đã biết về thời gian khai mạc triển lãm, ngày 29 tháng 9 năm 1995, và họ đã nhận trách nhiệm giao sách đúng lúc. Bên bán chịu trách nhiệm vận chuyển, hoặc ở mức tối thiểu đã chọn và ủy quyền cho một đại lý giao nhận dưới tên riêng và trên tài khoản của mình. Ngân hàng B-Bank duy trì một chương trình nhiếp ảnh độc lập trong khuôn khổ hoạt động tài trợ nghệ thuật của mình. Bên mua đệ trình rằng, như một phản ứng với sự chậm trễ, Ngân hàng B-Bank đã xóa tên người mua khỏi danh sách các nhà cung cấp và không còn mời người mua đưa ra bất kỳ lời đề nghị nào. Do đó, bên mua không nhận được bất cứ đề nghị nào cho 13 triển lãm ảnh do Ngân hàng B-Bank tài trợ trong năm 1996 cũng như đơn đặt hàng cho 14 triển lãm trong năm 1997. Bên mua lập luận rằng là một trong ba nhà xuất bản châu Âu chuyên về sản xuất các ấn phẩm như vậy, bên mua sẽ nhận được ít nhất một phần ba số ủy thác, tổng cộng là 10. Bên mua tính rằng khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ trung bình 18.000 đồng mác Đức cho mỗi lần ủy thác, tổng là 180.000 đồng mác Đức.

Trong tuyên bố yêu cầu bồi thường và trả lời tuyên bố biện hộ, bên bán đã đưa ra những lời biện hộ và phản đối sau đây liên quan đến khiếu nại này.

Các bên đã đặt ra thời hạn trung gian. Việc tuân thủ các thời hạn đó là điều kiện tiên quyết không thể thiếu để người bán sẵn sàng gửi các ấn phẩm, vốn ban đầu được ấn định vào ngày 27 tháng 9 năm 1995. Thời hạn trung gian quan trọng nhất là vào ngày 15 tháng 8 năm 1995, vào ngày đó tất cả các cuốn phim đều được cho là sẽ có mặt tại nơi in ở Ae, nước Ý. Điều này là cần thiết để việc in ấn được thực hiện vào ngày 30 tháng 8 năm 1995 và việc đóng sách vào ngày 4 tháng 9 năm 1995. Tuy nhiên, các cuốn phim vẫn chưa đến cho đến ngày 11 tháng 9 năm 1995, những cuốn phim cuối cùng thậm chí chỉ được giao vào ngày 19, 20 và 24 tháng 9 năm 1995. Vì sự chậm trễ của bên mua, các bên đã đồng ý vào ngày 13 tháng 9 năm 1995 về việc gửi các ấn phẩm vào ngày 28 tháng 9 năm 1995. Bên bán đã giữ đúng lịch trình đó.

* Yêu cầu 3: Về sách “Steven Arnold”

Bên mua đệ trình rằng các bên đã đồng ý giao sớm những cuốn sách nghệ thuật này vào ngày 8 tháng 12 năm 1995 cho triển lãm của nghệ sĩ này tại Frankfurt vào buổi sáng và cuộc họp báo ở New York cùng ngày. Tuy nhiên, những cuốn sách đã không đến kịp. Tại Frankfurt, chúng đến vào ngày 8 tháng 12 năm 1995 lúc 9:30 tối, sau khi vị khách cuối cùng đã rời khỏi triển lãm từ lâu, và tại New York, cuộc họp báo vào ngày 8 tháng 12 năm 1995 cũng phải tổ chức mà không có sách. Một lần nữa, chính bên bán đã ủy quyền cho đại lý vận tải hàng hóa. Vì bên mua không thể bán sách trong buổi khai mạc triển lãm, họ đã bị chịu lỗ với số tiền 10.829 đồng mác Đức.

Bên bán cho rằng ngày giao hàng đã được thống nhất là ngày 15 tháng 12 năm 1995. Vào ngày 5 tháng 12 năm 1995, bên mua đã yêu cầu nhận một số lượng nhỏ sách cho buổi khai mạc triển lãm tại Frankfurt và cuộc họp báo đồng thời ở New York chỉ ba ngày sau đó vào ngày 8 tháng 12 năm 1995. Bên bán đã cố gắng thực hiện yêu cầu như một sự giúp đỡ cho bên mua. Điều này đã bị hủy hoại bởi một cuộc đình công của các nhà vận chuyển khác nhau. Nghĩa vụ của bên bán không dẫn đến thỏa thuận về ngày giao hàng sớm hơn, bên bán cũng không chấp nhận chi phí và rủi ro vận chuyển.

* Yêu cầu 4: “Ralph Gibson”

Bên mua lập luận rằng bên bán đã giao tác phẩm này quá muộn cho ngày triển lãm. Một lần nữa, điều này đã dẫn đến kết quả là bên mua sau đó không bao giờ được xem xét lại bởi một nhà tài trợ tư nhân, Ngân hàng Mn-Bank, và hậu quả là phải chịu thiệt hại.

Bên bán phản đối đệ trình này và lập luận rằng họ đã bàn giao sách kịp thời cho đại lý giao nhận do bên mua ủy quyền, mặc dù bên mua đã giao các bản thảo để in muộn. Trong mọi trường hợp, các bên đã đạt được một thỏa thuận liên quan đến ủy quyền này.

3. Phân tích và phán quyết của Tòa Thương mại Zürich của Thụy Sỹ

Bên mua được yêu cầu thanh toán cho bên bán số tiền là 161.724.538 đồng lire Ý cộng với tiền lãi trên 164.997.395 đồng lire Ý ở mức 10% từ ngày 1 tháng 10 năm 1996 đến ngày 31 tháng 12 năm 1996, ở mức 9,875% từ ngày 1 tháng 1 năm 1997 đến ngày 31 tháng 5 năm 1997, ở mức 9,375% từ ngày 1 tháng 6 năm 1997 đến ngày 3 tháng 12 năm 1997 cũng như lãi suất 9,375% trên 158.996.534 đồng lire Ý từ ngày 4 tháng 12 năm 1997.

Tòa án cho rằng CISG được áp dụng trong trường hợp này và phân loại mối quan hệ pháp lý giữa các bên là mua bán hàng hóa được sản xuất theo Điều 3(1) CISG.

Đối với thỏa thuận của các bên về việc trì hoãn thanh toán, tòa án nhận thấy rằng mặc dù thỏa thuận đó thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG, CISG không có bất kỳ quy định nào liên quan đến nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản rằng bên đưa ra yêu cầu phải là bên chịu nghĩa vụ chứng minh. Do bên mua đã không chứng minh đầy đủ yêu cầu hoãn thanh toán của mình, tòa án đã từ chối yêu cầu này.

Đối với một lô hàng sách, bên mua đã yêu cầu giảm giá cũng như các thiệt hại phát sinh từ việc người bán sử dụng một loại giấy khác so với thỏa thuận. Tòa án thấy rằng bên mua đã thông báo kịp thời và đã chỉ định đầy đủ sự thiếu phù hợp (Điều 38 CISG). Bên bán đã đề nghị khắc phục bằng chi phí của mình, nhưng bên mua đã từ chối lời đề nghị đó vì “thiếu thời gian”. Tòa án cho rằng bên  bán chỉ có thể khắc phục, nếu điều này sẽ không dẫn đến sự chậm trễ vô lý, bất tiện hoặc không chắc chắn về việc bồi hoàn cho bên mua. Nếu giao hàng trễ như vậy sẽ cấu thành vi phạm hợp đồng nghiêm trọng theo CISG 49 (1) (b) hoặc nếu chậm trễ sẽ dẫn đến vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, đây được coi là sự chậm trễ vô lý. Tòa án đã không quyết định liệu đây có phải là trường hợp đó hay không, vì bên mua đã không xác định và chứng minh được yêu cầu giảm giá và bồi thường thiệt hại của mình.

Đối với một lô hàng ấn phẩm mà phải được bán tại một triển lãm và sản xuất bị trì hoãn vì lý do được xác định là do bên mua, tòa án đã bác bỏ yêu cầu bồi thường thiệt hại của bên mua. Để có được các ấn phẩm có sẵn tại lễ khai mạc triển lãm, bên bán đã ủy quyền cho một công ty giao nhận, bên mà đã đảm bảo giao hàng kịp thời. Tuy nhiên, các ấn phẩm đến quá muộn. Tòa án cho rằng theo Điều 31 CISG, bên bán chỉ có nghĩa vụ sắp xếp vận chuyển, tức là giao hàng cho nhà vận chuyển đầu tiên để họ chuyển cho bên mua. Vì vậy, bên bán đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình và không chịu trách nhiệm về những thiếu sót của nhà vận chuyển. Vì lý do tương tự, bên bán không thể, theo Điều 79 (2) CISG, chịu trách nhiệm về hành vi của nhà vận chuyển, bên mà mà họ đã thuê để thực hiện một phần của hợp đồng. Tòa kết luận rằng một bên bán thực hiện nghĩa vụ của mình kịp thời nếu họ gửi hàng hóa kịp thời chứ không phải nếu bên mua nhận được hàng kịp thời.

Theo cơ sở đó, tòa án đã quyết định rằng bên bán phải được thanh toán tiền hàng vì đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng và bác bỏ các yêu cầu của bên mua. 

Trong vụ việc này, Tòa đã có một số đoạn phân tích liên quan đến Điều 45. Cụ thể, khi xem xét các yêu cầu của bên mua về sách Christian Vogt “In Camera”, Tòa cho rằng nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, bên mua luôn được quyền giảm giá hàng hóa tương ứng với giá trị thấp hơn của hàng hóa theo quy định của Điều 50 (1) CISG. Điều này là độc lập cho dù tiền hàng đã được trả hay chưa. Nếu bên bán khắc phục sự không phù hợp hoặc bên mua từ chối chấp nhận biện pháp khắc phục, bên mua không được quyền giảm tiền hàng. Trong trường hợp này, lựa chọn duy nhất còn lại cho bên mua là yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Điều 45 CISG.

Tuy nhiên, bên bán chỉ có quyền khắc phục sự thiếu phù hợp nếu có thể mong đợi một cách hợp lý rằng bên mua sẽ chấp nhận biện pháp khắc phục muộn. Biện pháp khắc phục có thể không gây ra “sự chậm trễ vô lý”, “sự bất tiện vô lý” hoặc “sự không chắc chắn vô lý” liên quan đến việc bồi thường chi phí. Một sự chậm trễ vô lý sẽ xảy ra nếu việc không giữ đúng ngày giao hàng đã cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng hoặc nếu sự chậm trễ hơn nữa dẫn đến vi phạm cơ bản. Có một sự từ chối chấp nhận biện pháp khắc phục được đưa ra nếu bên mua tuyên bố dứt khoát và nghiêm túc với bên bán rằng bên mua sẽ không chấp nhận biện pháp khắc phục. Căn cứ vào một trong số xem xét nêu trên, Tòa đã bác bỏ khiếu kiện của bên mua về sách Christian Vogt “In Camera”.

Khi xem xét các yêu cầu của bên bán liên quan đến ấn phẩm “100 năm - 100 hình ảnh”, Tòa cho rằng người mua có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Điều 45 (1)(b) cùng với các điều từ 74-77 CISG nếu bên bán không thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm đối với việc thực hiện nghĩa vụ của bên bán, độc lập với lỗi của bên bán. Theo nghĩa của quy định này, “nghĩa vụ của bên bán” là tất cả các nghĩa vụ mà bên bán phải tuân thủ, theo từng giao dịch hợp pháp cụ thể. Các nghĩa vụ này có thể là kết quả của một điều khoản rõ ràng hoặc của việc giải thích hợp đồng, từ các điều khoản bổ sung của Công ước cũng như các tập quán thương mại có liên quan hoặc các tập quán được thiết lập giữa các bên.   

Điều 31 CISG, điều chỉnh nội dung nghĩa vụ giao hàng của bên bán, phân biệt giữa các hợp đồng liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa và các hợp đồng khi không cần vận chuyển. Điều 31 CISG không bao gồm tình huống mà chính bên bán phải giao hàng đến một trong những nơi kinh doanh của bên mua. Một hình thức giao hàng như vậy không được quy định tại Điều 31.

Trong các trường hợp không chắc chắn, nghĩa vụ như vậy không thể được thừa nhận: Nếu hợp đồng yêu cầu vận chuyển hàng hóa, thì đó là nghĩa vụ gửi hàng hóa; trong các trường hợp khác, hàng hóa sẽ có sẵn cho bên mua sử dụng tại địa điểm kinh doanh của bên bán.

Nghĩa vụ giao hàng của bên bán do đó chủ yếu là khởi động việc vận chuyển hàng hóa: bên bán phải bàn giao hàng hóa cho người vận chuyển đầu tiên để chuyển cho bên mua. Bằng cách giao hàng hóa cho nhà vận chuyển để chuyển cho bên mua, bên bán đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình. Vì lý do này, bên mua không còn có thể buộc bên bán chịu trách nhiệm về việc không thực hiện theo Điều 45(1)(b) CISG, nếu hàng hóa bị phá hủy hoặc chuyển nhầm địa chỉ trong quá trình vận chuyển hoặc nếu việc bàn giao cho bên mua bị trì hoãn. Những sai lầm của nhà vận chuyển không nằm trong phạm vi trách nhiệm của bên bán. Do đó, câu hỏi liệu hợp đồng có được hoàn thành kịp thời hay không cũng được xác định bởi việc gửi kịp thời chứ không phải do thời điểm hàng hóa đến.

*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 3, 31, 38, 45, 50, 74, 75, 76, 77 và 79 CISG.

Ðiều 3

1. Ðược coi là hợp đồng mua bán các hợp đồng cung cấp hàng hóa sẽ chế tạo hay sản xuất, nếu bên đặt hàng không có nghĩa vụ cung cấp phần lớn các nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo hay sản xuất hàng hóa đó.

2. Công ước này không áp dụng cho các hợp đồng trong đó nghĩa vụ của bên giao hàng chủ yếu là phải thực hiện một công việc hoặc cung cấp một dịch vụ khác.”

Ðiều 31

Nếu người bán không bắt buộc phải giao hàng tại một nơi nhất định nào đó, thì nghĩa vụ giao hàng của người này là:

a. Nếu hợp đồng mua bán quy định cả việc vận chuyển hàng hoá thì người bán phải giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên để chuyển giao cho người mua.

b. Nếu trong những trường hợp không dự liệu bởi điểm nói trên, mà đối tượng của hợp đồng mua bán là hàng đặc định hoặc là hàng đồng loại phải được trích ra từ một khối lượng dự trữ xác định hoặc phải được chế tạo hay sản xuất ra và vào lúc ký kết hợp đồng, các bên đã biết rằng hàng đã có hay đã phải được chế tạo hoặc sản xuất ra tại một nơi nào đó thì người bán phải có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi đó.

c. Trong các trường hợp khác, người bán có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi nào mà người bán có trụ sở thương mại vào thời điểm ký kết hợp đồng.”

Ðiều 38

1. Người mua phải kiểm tra hàng hóa hoặc bảo đảm đã có sự kiểm tra hàng hóa trong một thời hạn ngắn nhất mà thực tế có thể làm được tuỳ tình huống cụ thể.

2. Nếu hợp đồng có quy định về việc chuyên chở hàng hóa, thì việc kiểm tra hàng có thể được dời lại đến lúc hàng tới nơi đến.

3. Nếu địa điểm đến của hàng bị thay đổi trong thời gian hàng đang trên đường vận chuyển hoặc hàng được người mua gửi đi tiếp và khi đó người mua không có khả năng hợp lý để kiểm tra hàng hóa, còn người bán đã biết hay đáng lẽ phải biết khi ký kết hợp đồng về khả năng đổi lộ trình hay gửi tiếp đó, thì việc kiểm tra có thể được dời lại đến khi hàng tới nơi đến mới.”

Ðiều 45

1. Nếu người bán đã không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng mua bán hay Công ước này, thì người mua có căn cứ để:

a. Thực hiện những quyền hạn của mình theo quy định tại các điều từ 46 đến 52.

b. Ðòi bồi thường thiệt hại như đã quy định tại các điều từ 74 đến 77.

2. Người mua không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền dùng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác.

3. Không một thời hạn trì hoãn nào có thể được Tòa án hay Trọng tài ban cho người bán khi người mua sử dụng đến bất kỳ biện pháp bảo hộ pháp lý nào trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng.”

Ðiều 50

Trong trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, dù tiền hàng đã được trả hay chưa người mua có thể giảm giá hàng theo tỷ lệ căn cứ vào sự sai biệt giữa giá trị thực của hàng hóa vào lúc giao hàng và giá trị của hàng hóa nếu hàng phù hợp hợp đồng vào lúc giao hàng. Tuy nhiên, nếu người bán loại trừ mọi thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ chiếu theo điều 37 hoặc điều 48 hoặc nếu người mua từ chối chấp nhận việc thực hiện của người bán chiếu theo các điều này thì người mua không được giảm giá hàng.”

Ðiều 74

Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”

“Ðiều 75

Khi hợp đồng bị hủy và nếu bằng một cách hợp lý và trong một thời hạn hợp lý sau khi hủy hợp đồng, người mua đã mua hàng thay thế hay người bán đã bán hàng lại hàng thì bên đòi bồi thường thiệt hại có thể đòi nhận phần chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá mua thế hay bán lại hàng cũng như mọi khoản tiền bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo Điều 74.”

“Ðiều 76

1. Khi hợp đồng bị hủy và hàng có một giá hiện hành, bên đòi bồi thường thiệt hại có thể, nếu họ đã không mua hàng thay thế hay bán lại hàng chiếu theo Điều 75, đòi nhận phần chênh lệch giữa giá ấn định trong hợp đồng và giá hiện hành lúc hủy hợp đồng, cùng mọi khoản tiền bồi thường thiệt hại khác có thể đòi được chiếu theo Điều 74. Mặc dầu vậy, nếu bên đòi bồi thường thiệt hại đã tuyên bố hủy hợp đồng sau khi đã tiếp nhận hủy hàng hóa, thì giá hiện hành vào lúc tiếp nhận hàng hóa được áp dụng và không phải là giá hiện hành vào lúc hủy hợp đồng.

2. Theo mục đích của điều khoản trên đây, giá hiện hành là giá ở nơi mà việc giao hàng đáng lẽ phải được thực hiện nếu không có giá hiện hành tại nơi đó, là giá hiện hành tại một nơi nào mà người ta có thể tham chiếu một cách hợp lý, có tính đến sự chênh lệch trong chi phí chuyên chở hàng hóa.”

“Ðiều 77

Bên nào viện dẫn sự vi phạm hợp đồng của bên kia thì phải áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn chế tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu họ không làm điều đó, bên vi phạm hợp đồng có thể yêu cầu giảm bớt một khoản tiền bồi thường thiệt hại bằng với mức tổn thất đáng lẽ đã có thể hạn chế được.”

“Ðiều 79

1. Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu quả của nó.

2. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:

a. Ðược miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và.

b. Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của khoản trên được áp dụng cho họ.

3. Sự miễn trách được quy định tại điều này chỉ có hiệu lực trong thời kỳ tồn tại trở ngại đó.

4. Bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải báo cáo cho bên kia biết về trở ngại và ảnh hưởng của nó đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ. Nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý từ khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.

5. Các sự quy định của điều này không cản trở từng bên được sử dụng mọi quyền khác ngoài quyền được bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này.”

Bài viết liên quan

Góp ý